Trang

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

CẦU HIỀN LƯƠNG

Đất nước liền một dải
Cầu Hiền Lương  - cái gạch nối
Giữa hai miền vời vợi
Những  gian khổ ta qua 
Núi cao và đèo dốc
Bạn bè cùng đánh giặc
Trong khói lửa đạn bom
Chiến sĩ ta kẻ mất người còn
Nhiều liệt sĩ nằm dọc Trường Sơn
Nghĩa trang không bia mộ còn đó
Sông Thạch Hãn ngày nào loang đỏ
Nhiều người mẹ ,người vợ  vẫn đớn đau
Người thân chưa trở về đất tổ
Xin được thắp  nén hương tưởng nhớ
Các anh chị ở cõi vĩnh hằng.





Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

TIẾNG NHẠC CHIỀU

Bản nhạc chiều ngân nga âm vang 
Theo gió đưa ngây ngất mơ màng
Âm thanh lan rộng khắp nơi
Làm ngẩn ngơ xao xuyến lòng người
Tiếng nhạc Beethoven,Chopin
Cứ vang lên gợi lòng ai bất chợt
Nhớ ngày xưa,nhớ bao kỷ niệm
Thời ấu thơ,Thời sôi nổi thanh xuân.
Tiếng nhạc chiều sao quá vấn vương
Lá xào xạc rơi,hoa rung cánh thắm
Một nỗi buồn thoáng qua xa vắng
Chiều hè đi,chạng vạng hoàng hôn.


Thứ Năm, 18 tháng 7, 2013

QUÊ HƯƠNG

Giữa đô thành đông vui nhộn nhịp
Tiếng chuông nhà thờ văng vẳng xa xa
Man mác trong ta nỗi nhớ quê nhà
Ở nơi ấy biết bao kỷ niệm
Tuổi thơ ngây ta đã từng qua
Một nỗi nhớ cháy lòng dĩ vãng
Xao xuyến lòng ta những buổi chiều tà
Nơi ấy gió đùa tre kẽo kẹt
Tím hoa bèo,ao sóng lăn tăn
Hương bưởi đưa chiều xuân ngào ngạt
Dâm bụt vườn hoa đỏ,lá xanh.
Ngày xưa mẹ mỗi lần về chợ
Biết bao nhiêu loại bánh mẹ mua
Cam quýt ,hồng,khoai lang,khoai sọ
Mit thơm lừng cùng những bắp ngô.

Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

CÀ PHÁO

Những điều chưa biết về cà pháo

Thứ Năm, 13/09/2012 16:05
Theo Đông y, cà pháo vị ngọt, tính hàn, có tác dụng tán huyết, tiêu viêm, chỉ thống, nhuận tràng, lợi tiểu, trị thũng thấp độc, trừ hòn cục trong bụng, ho lao.
Mô tả
Đông y gọi quả cà là di tử hay giả tử, ải qua.
Dân gian còn gọi là cà ghém, cà pháo, cà muối.
Cà pháo còn gọi là cà gai hoa trắng, tên khoa học là Solanum torum. Nó là cây nhỏ, lá xẻ thùy nông, có gai. Hoa màu trắng, quả màu trắng đổi màu vàng khi chín. Toàn cây đều có thể dùng làm thuốc.
http://123.25.71.107:82/hoidap/uploads/news/2011_06/http://123.25.71.107:82/hoidap/uploads/news/2011_06/caphaodamtoi.jpg://123.25.71.107:82/hoidap/uploads/news/2011_06/caphaodamtoi.jpghttp://123.25.71.107:82/hoidap/uploads/news/2011_06/caphaodamtoi.jpgCà pháo mắm tôm là món ăn truyền thống
Cà pháo thường được dùng trị đau cả vùng thắt lưng, té ngã tổn thương; đau dạ dày, đau răng; bế kinh; ho mãn tính. Dùng 10 - 15g rễ, dạng thuốc sắc.
100g cà pháo cung cấp 1,5g protein (có đủ các acid amin cần thiết cho cơ thể), 12mg canxi, 0,7mg sắt, 18mg magiê, 16mg phospho, 221g kali, 0,3mg kẽm. Ngoài ra nó còn chứa cả đồng và selen là các vi khoáng quý. Nhiều loại vitamin như tiền vitamin A, vitamin C (3mg/100g), vitamin B1, B2, PP cũng có trong cà pháo. Riêng phần hạt cà đúng là có nhiều sợi lông nhỏ nên có thể là nguyên nhân gây ho. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào công bố về tác hại này. Lượng sitosterol không đáng lưu tâm nhưng lại có solanin độc. Quả cà chưa chín có nhiều solanin hơn quả chín.
Quả cà xanh có thể luộc ăn, làm nộm, ăn xào. Quả già dùng muối xổi để ăn dần; nếu muối mặn để được hằng năm, ăn giòn như nổ trong miệng.
Quả cà cắt miếng ăn sống như rau, chấm mắm tôm hay mắm ruốc: quả cà giòn tan, nhai sồn sột kèm với mắm mặn rất khoái khẩu nhưng cần cẩn thận, ăn nhiều có thể bị nhức mỏi do solanin độc. Trong “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” có ghi rằng: không nên ăn nhiều cà sống.
Cà pháo muối được ưa chuộng hơn món cà sống. Ngâm quả cà vào vại nước muối phải nén vỉ thật chặt, không để quả cà nổi lên, cho nên gọi là cà nén và có câu “trẻ muối cà, già muối dưa”. Cà muối xổi chỉ vài ngày là ăn được, ăn cà muối không bị nhức mỏi, có lẽ muối chua làm giảm độc tính.
Nhiều người cho rằng, cà ăn nhiều sẽ gây ra thấp nhiệt, vì thế người nào có “gốc” trường vị bị “thấp nhiệt” không dám ăn cà nhiều. Tuy nhiên, ăn cà gây ra thấp nhiệt có thể do những món gia vị như: đậu xị, ớt, củ hành... Những món gia vị này, bất luận nấu với cà hoặc là nấu với những loại thịt khác, nếu dùng quá nhiều đều có thể gây ra thấp nhiệt.
Một số dân ở thôn quê khi ăn cà thường đem cắt thành miếng, đựng trong dĩa, lúc nấu cơm để vào hấp, khi chín rồi nêm thêm chút gia vị, cách làm này không những có thể giữ được mùi vị nguyên chất của cà mà khi ăn còn ngon hơn các cách nấu khác, cho dù ăn nhiều cũng không ảnh hưởng đến trường vị thấp nhiệt.
Người Nhật ăn cà, thường ăn sống, đem xắt thành miếng ướp với muối độ ba tiếng đồng hồ, rồi thêm gia vị dùng làm món ăn. Họ cho rằng ăn như vậy sẽ có ích cho trường vị,  chất nước của cà, ăn sống lại càng có công hiệu giải độc.
Trong Trung dược học bản thảo có ghi: “Cà có thể chống sưng, cầm đau, làm tan máu bầm, trừ hàn nhiệt và ngũ tạng lao”.
Những công dụng
Trị đại tiện ra máu, tiểu ra máu, chứng thổ huyết (ói ra máu): lấy cà pháo phơi khô, đem nướng cháy, nghiền thành bột để uống, có hiệu quả khá tốt.
Trị đại, tiểu tiện gây chảy máu: cà pháo già sao vàng, tán mịn, mỗi lần dùng 8g, hòa với nước, dấm loãng để uống, ngày 3 lần. Hoặc dùng rễ và cây cà khô 40g sắc uống.
Trị đại tiện ra máu lâu ngày không khỏi: sách thuốc của Trung Quốc có thuật lại cách dùng cà pháo để trị như sau: dùng vài mảnh giấy tập học trò, đem nhúng nước và gói trái cà lại, cho vào miệng dưới của ống lò, nướng cho chín (tức là đợi khi các mảnh giấy đều cháy hết cả), lấy ra lột sạch bên ngoài, chấm với gia vị để ăn.
Trị tỳ vị suy yếu, ăn uống kém: quả cà tươi 250g nấu lên ăn cùng với một số thực phẩm khác theo thói quen như: thịt heo, rau tía tô, hành tỏi, ngò tàu… liên tục trong mấy ngày, có công năng kiện tỳ, hòa vị; thích hợp chữa trị các chứng bệnh vận hóa của tỳ vị kém (ăn uống khó tiêu, đại tiện phân sống…).
Trị khó tiểu: nước hãm lá tươi cà dại hoa trắng, phối hợp với cành lá của cây đơn buốt.
Trị đau răng, viêm lợi: quả cà muối lâu năm, đốt tồn tính, xát than này vào răng, lợi.
Trị đau răng, răng lung lay, nha chu viêm: núm cà pháo 1kg, ngâm 1 lít nước muối (100g muối cho 1 lít nước), ngâm một đêm. Sáng ra vớt ra để khô, sao cho khô, tán thành bột. Dùng để xát vào răng. Đây là kinh nghiệm của Ohsawa dựa trên nguyên lý điều chỉnh âm - dương, trong đó, núm cà (âm), muối (dương), ngâm nước (âm), sao khô (dương). Làm thành bột (có âm + dương), trên lâm sàng chúng tôi nhận thấy có kết quả khá tốt.
Trị ho lâu năm không khỏi: cà pháo tươi 30 - 60g nấu chín, cho mật ong vừa đủ, nấu lại, ngày ăn 2 lần.
Đây là kinh nghiệm của Trung Quốc dù kinh nghiệm của Việt Nam lại cho rằng khi ho không ăn cà, nhưng có lẽ cà đã được nấu chín và thêm mật ong sẽ không lo bị lạnh bên trong khi dùng, cho nên có thể dùng trị ho vẫn có kết quả.
Trị mụt nhọt đau đớn khó chịu: trái cà pháo tươi giã nát, cho vào một ít đường đắp ngay chỗ đau, có thể chống sưng, cầm đau nhức.
Trị sâu bọ, kiến cắn mà làm độc: trái cà pháo tươi, giã nát đắp vào có thể chống sưng và không làm mủ.
Trị đinh nhọt và viêm mủ da: giã lá tươi và đắp vào chỗ đau.
Trị ong (vò vẽ) đốt, nứt nẻ ở bàn chân, kẽ chân: quả giã nát với lá lốt, lấy nước bôi.
Trị nhọt lở loét: tai quả cà nấu uống rất tốt.
Trị chân tay bị nứt nẻ và giá lạnh: dùng rễ và cây cà khô nấu nước ngâm rửa.
Ở những vùng thường xuyên bị bão lụt, người ta muối cà pháo mặn cả vại để làm thực phẩm dự trữ. Cà muối này rất mặn, cần ngâm nước lâu để sả bớt vị mặn. Cà này mặn tới độ một miếng cà, ba chén cơm và cà Nghệ An càng mặn càng ngon!
Lưu ý:
Theo Đông y, cà pháo có tính hàn (thậm chí rất hàn), vì vậy kiêng dùng đối với người hư hàn, thận trọng khi phối hợp với các thức ăn hàn, nên ăn kèm các gia vị có tính ôn như: tỏi, ớt, sả… người mới đau dậy, suy nhược không nên ăn cà, cà không nên ăn sống.
Cà pháo tính hàn, hơi độc, ăn nhiều có thể bị đau bụng và sinh cố tật cho nên người xưa thật có lý khi nói rằng một quả cà, ba chén thuốc.
Người bị bệnh tăng nhãn áp không dùng.
Cây cà gai hoa tím có hình dáng tương tự như cây cà gai hoa trắng, chỉ khác là hoa màu tím. Quả màu vàng đổi sang màu đỏ khi chín. Quả này không ăn. Đã có khá nhiều trường hợp ngộ độc do nhầm lẫn với loại trên.
Dân gian thường nói: “Một quả cà bằng 3 thang thuốc”, có lẽ chỉ hợp với cà sống (chưa chín) vì trong cà sống có solanin độc. Quả cà chưa chín có nhiều solanin hơn quả chín. Kinh nghiệm lâm sàng cho thấy ăn cà muối không bị nhức mỏi, có lẽ muối chua làm giảm độc tính.Cà pháo không có chất độc gì.Cà pháo muối chua có tác dụng thay thế khu hệ sinh vật gây thối trong đường ruột,ăn cà pháo muối chua có tác dụng như ăn sữa chua.
                               (sưu tầm và biên tập )


Thứ Ba, 9 tháng 7, 2013

BÌNH MINH XÔN XAO

Nắng ban mai lung linh tươi rói
Như nụ cười rạng rỡ tuổi đôi mươi,
Sáng bừng lên đất trời chói lọi.
Chim hót vang ríu rit gọi nhau về,
Ngoài vườn sau rộn rã tiếng ve,
Cơn gió thoảng đung đưa cành lá
Rơi cả giọt sương trên cánh hoa.
Đường phố tấp nập tiếng người,tiếng xe
Tất cả bừng tỉnh sau giấc ngủ đêm hè.



Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2013

CÔNG DỤNG VÀ TÁC HẠI CỦA BỒ KẾT

Dưới đây là một số công dụng của bồ kết mà bạn nên biết để sử dụng lúc cần thiết.

1. Chữa cảm gió, cấm khẩu: Khi bị cảm gió, cấm khẩu, nhiều đờm, dùng quả bồ kết bỏ hạt lấy vỏ nướng cháy tán thành bột, ngày cho uống 0,5 – 1g. Không tán được thì sắc uống 5 – 10g.

2. Đau răng: Lấy 50gr hạt bồ kết tươi đã được rửa sạch cho vào lọ thủy tinh. Đổ thêm 200ml nước sôi. Đậy kín miệng lọ. Sau 3 giờ, bỏ ra lọc lấy nước. Dùng nước này để ngậm từ 2 – 3 lần/ngày sẽ giúp giảm đau răng một cách nhanh chóng.

3. Kiết lỵ lâu ngày: 50g hạt bồ kết sao vàng tán thành bột, trộn với hồ nếp, viên thành từng viên to bằng hạt ngô, chia làm 2 lần, ngày uống 10 viên.

4. Trị tiêu đờm, thông quản, gây nôn (không đại tiểu tiện – trung tiện và sát trùng): Dùng 15g vỏ và 10g hạt quả bồ kết sắc lấy nước thuốc uống ngày hai lần vào buổi sáng và chiều (đến khi khỏi thì ngưng uống).

5. Chữa quai bị: Dùng 1 liều lượng quả bồ kết vừa đủ, đốt thành than rồi tán nhỏ trộn với giấm thanh. Lấy bông thấm thuốc rồi đắp lên chỗ quai bị, cứ khoảng 20 – 30 phút lại thay 1 lần.

6. Ngạt mũi, khó thở hoặc bị viêm xoang: Đốt vài quả bồ kết cho khói xông vào mũi thì mũi thông, dễ thở.

7. Mụn nhọt sưng nhức: Nếu bị mụn nhọn sưng nhức khó ngủ thì lấy 4g gai bồ kết sắc uống mỗi ngày.

8. Ngạt mũi, khó thở: Nếu bạn bị ngạt mũi, khó thở thì có thể dùng 3 - 4 quả bồ kết đốt cho khói xông vào mũi, cảm giác nghẹt mũi sẽ hết ngay.

9. Chữa đầy bụng, ăn không tiêu cho trẻ nhỏ: Các bạn dùng 1 đến 2 quả bồ kết đặt trên bếp than, dùng lá trầu hơ qua hơi nóng của bồ kết rồi ép lên bụng sẽ có công dụng ngay.

10. Khả năng diệt khuẩn trong không khí: Để đảm bảo sức khoẻ cho cả nhà, các bạn cho vài trái bồ kết vào lò than nóng và mang đi khắp nhà, bồ kết nổ lốp đốp sẽ diệt sạch vi khuẩn, mang lại cho gia đình một bầu không khí trong lành và hạn chế bệnh. Cách này cực kỳ hiệu quả với những ngôi nhà mới xây.

Phụ nữ có thai, người yếu không nên uống bồ kết. Khi đói không nên dùng bồ kết.

Thứ Hai, 1 tháng 7, 2013

ĐÊM

Trăng lọt qua khe cửa
Xua tan hết bóng đêm.
Ánh trăng như tơ lụa
Trải vàng cả ngoài thềm.
Chim chóc đã ngủ yên,
Con cũng ngủ ngoan nhé
Trên cánh tay của mẹ.
Không gian tĩnh lặng quá
Dế mèn kêu khe khẽ;
Ngoài hiên gió nhẹ đưa
Hương hoa nhài thơm ngát,
Lá khô rơi xào xạc,
Tiếng rao hàng gần xa
Vang mãi trong đêm hạ.